Từng miếng chả tôm , suông đuột trông lạ mắt như quấn lấy sợi bún , ngập trong nước dùng chua ngọt khiến thực khách hài lòng khi thưởng thức. Trà Vinh là một tỉnh có nền ẩm thực giao thoa của dân tộc Kinh, Khmer và Hoa.
- Details
- Hits: 1622
Nghề ăn của Việt Nam ta cũng lắm công phu và đa dạng. Mỗi miền, mỗi vùng, mỗi địa phương của đất nước đều cho ta những món ăn độc đáo của mình. Trước hết mời bạn thưởng thức món cháo ám Trà Vinh nổi tiếng một thời. Cùng tìm hiểu về món ăn này nhé
- Details
- Hits: 2789
Một lần qua huyện Cầu Kè, bất chợt, tôi bắt gặp một thứ trái lạ bán bên vệ đường. Trái tròn cỡ quả banh nhựa trẻ con , da nhám có màu xám trắng, mà bọn trẻ con chúng tôi ngày xưa thường hái về đập bỏ vỏ ngoài lấy nhân màu trắng .
- Details
- Hits: 2071
Nhắc đến đặc sản Gia Lai người ta nghĩ ngay đên Bò một nắng hai sương xé tay, chấm với muối kiến vàng kèm lá é mới đúng điệu.Món bò một nắng hai sương có cái tên khá lạ. Một nắng thì giống như mực một nắng, còn sương thì có bánh tráng phơi sương Trảng Bàng. Vậy ở đâu thêm hai sương? Cùng chúng tôi tìm hiểu nhé .
- Details
- Hits: 1218
Cơm lam, gà nướng là hai món ăn nổi tiếng của người đồng bào ở bản Đôn. Cơm lam được coi là món ăn đặc trưng nhất của núi rừng bởi chắt lọc từ vị ngọt của dòng suối mát trong và hương thơm của tre nứa xanh ngút đầu non. Cùng chúng tôi tìm hiểu nhé.
- Details
- Hits: 1844
Đến với Tây Nguyên đại ngàn, ngoài thắng cảnh thiên nhiên hùng vĩ chắc chắn bạn sẽ còn cảm nhận được Tây Nguyên qua những chiếc lá. Đó là những hương vị mà thiên nhiên dành tặng cho con người
- Details
- Hits: 2309
Thịt nai món đặc sản chủ yếu của vùng rừng núi Tây Nguyên chỉ còn phong phú ở Đắc Lắc .Thịt nai tươi khác thịt bò ở chỗ ít gân, mở màu trắng ngà, mềm hơn cả thịt bê non. Thịt bò 7 món đã gây thèm muốn, có nơi trở thành đặc sản, nhưng 7 món nai vượt xa một cách bất ngờ, cho nên càng không thể so sánh với bò, cho dù là bê cũng không đọ nổi với thịt nai.
Nhà hàng đặc sản thịt nai tươi ở Buôn Ma Thuột thành phố trung tâm của tỉnh Đắc Lắc đã đưa thịt nai vào hầu hết thực đơn bữa thường, bữa tiệc để phục vụ khách hàng cũng như các tour du lịch Tây Nguyên... bằng các món nai nướng, nai xào làn, nai nhúng giấm nai lúc lác, sườn nai rán, cháo bao tử và sau cùng là nai khô hợp lại đủ 7 món như thịt bò. Nhưng với nai thì nai nướng, nai nhúng giấm, và nai khô lại là những món tiêu biểu nhất.
Thịt nai nướng thái mỏng ướp mở nước và gia vị rồi cắt mấy lát gừng nướng riêng để ăn nóng cùng lúc với nai nướng. Nai nướng không cần nước chấm, cũng không cần muối tiêu, miếng thịt nai nướng chín ngọt, mềm cộng với vị gừng nóng kích thích người ăn đến mê say mặc dù chưa dùng đến rượu bởi thịt nai khêu ngợi sự thèm muốn ăn hơn là uống. Còn ai đó đã có thói quen ăn nhậu cứ phải có chút nước thần đưa cay thì xin tuỳ ý và vô hại.
Nai nhúng giấm lại cứ như một bản nhạc đã chuyển gam bởi lẽ đã thấm đậm đà một hương vị không giống miếng nai nướng béo ngậy.
Nai nhúng cũng phải thái mỏng nhưng lại ướp với sả nước mắm ngon, ngũ vị hương và tỏi. Khi ăn phải dùng lẩu đặt giữa bàn, nước dùng có pha giấm đun sôi sục, cạnh lẩu là một khay to đựng đủ loại rau: sa lát,cà chua, hành tây thái khoanh, chuối xanh thái lát.
Thịt nai để sống bên ngoài gặp nhúng vào lẩu rồi ăn kèm với đồ sống mỗi thứ một tý hoặc chỉ ăn với rau sa lát hay khế với chuối xanh tuỳ theo sở thích và khẩu vị từng người, nhưng dù cách ăn nào thì cũng chỉ có ngon và cũng chỉ thích thú mà thôi.
Thịt nai nhúng giấm ăn được nhiều mà cũng không nặng bụng như thịt bò tuy cũng theo lối nhúng giấm. Nai nhúng giấm ăn kèm với bún hoặc bánh đa nướng vừa là món nhậu, vừa là món ăn no.
Nai khô có thể là đầu bảng trong các món nai. Thịt nai thái ngang thớ, miếng dài chừng 5 cm ướp kỹ bằng xì dầu, sả, muối, đường, ớt mè trắng và ngũ vị hương.
Sau khi ướp trong vòng 80 phút lấy từng miếng nướng trên than hoa, nướng xong dùng sống dao dần cho miếng thịt mềm mại rồi ăn mà không cần chấm với bất cứ thứ gì.
Nai khô không béo ngậy như nai nướng vì cách thức và nguyên liệu tẩm ướp khác nhau nên miếng nai khô ngọt lịm lại được phép nhâm nhi với ly rượu cao nai thì quá tuyệt vời mà ở thành phố miền xuôi thì sao có được! Nhất là trong thời kỳ nghiêm cấm săn bắt thú rừng quí hiếm ngày nay. Chẳng biết rồi mai đây Buôn Ma Thuật còn có thịt nai 7 món như bây giờ?
- Details
- Hits: 1758
Các món ăn như cá lóc, lươn đồng, chuột đồng,...đã trở thành những món ăn mang thương hiệu của vùng sông nước Miền Tây. Nhưng có một món ăn khác cũng khá là nổi tiếng ở đây mà bất kỳ thực khách nào sau mỗi lần thưởng thức cũng lại thêm lưu luyến vùng đất này. Món ăn vừa nghe tên thì ai cũng biết nó có xuất xứ từ đâu: Ba khía Miền Tây.
Tìm hiểu về món cá kho làng Vũ Đại kho 24 tiếng
Ba khía sinh sống nhiều nhất các vùng nước lợ, nơi vùng cửa sông của các tỉnh Bạc Liêu, Cà Mau,...Có nhiều người chưa quen nên dễ nhầm ba khía với cua đồng. Ba khía nhỏ hơn cua đồng, càng hơi dẹp và có ba vạch trên mai.Những ngày tháng 10 là bước vào mùa săn ba khía của người Miền Tây. Vào lúc này tại các cánh rừng ngập mặn, con ba khía bu đen hết các gốc cây, người ta đi bắt ba khía vào ban đêm, chèo ghe theo các con mương mang theo bao tay và đèn pin, chỉ đến nửa đêm đã bắt được rất nhiều. Thịt ba khía săn chắc và ngon chủ yếu là những con nhỏ, nên khi đi lựa ba khía đừng chọn con to mà nên chọn con nhỏ và có nhiều gạch. Những con ba khía đang vào mùa sinh nở, đang lúc ôm trứng thì thịt càng ngon hơn.
Các món ăn lấy nguyên liệu từ ba khía rất nhiều và khá đa dạng. Tùy theo từng vùng mà có thể rim chua ngọt hay lăn bột chiên để ăn với cơm, luộc chấm muối ớt, rang me, hấp bia, làm các món gỏi....Món canh ba khía cũng là một món ăn giải nhiệt rất tốt cho mùa hè nóng bức.
Để có một nồi canh đúng điệu, công đoạn đầu tiên phải chọn những con bá khía còn tươi ngon, đem rửa sạch bùn đất, bóc yếm và bẻ làm hai tách càng và gọng ra riêng. Ướp tất cả với gia vị như hành lá, nước mắm, tiêu xay và trộn đều để trong vòng 15 phút cho ba khía ngấm đều gia vị. Sau đó phi thơm tỏi và cho ba khía vào xào, đến khi có vị thơm bay lên là cho cà chua xắt miếng vào đảo thật đều rồi cho nước dùng vào nấu sôi. Để nồi canh thêm đậm đà nên cho vào me chua và bắp chuối thái sợi, rắc thêm một ít tiêu nữa là được một nồi canh chua ba khía tuyệt vời đem dùng chung với cơm rồi.
Người miền Tây có thói quen đem muối ba khía để ăn dần, món ăn cũng rất ngon, vị đậm đà khó cưỡng. Ba khía đem rửa sạch, xếp vào chum. Nước muối đã nấu sôi, chờ nguội đổ vào rồi đậy kín lại. Khoảng sau 5 ngày, mang mắm ra dầm với tỏi ớt thật nhiều, thêm vài giọt chanh, đường, bột ngọt. Mắm ba khía sau khi chế biến dùng để ăn với cơm, bún,...rất ngon. Món mắm ba khía mang hương vị rất đặc riêng mà hiếm loại mắm nào có được.
Ai có dịp về miền tây đừng quên thưởng thức những món ăn chế biến từ ba khía đặc sản của vùng đất này!
Nguồn:comvanphong24h.com
- Details
- Hits: 2688
Có đông đồng bào dân tộc Hoa sinh sống nên Bạc Liêu nặng ảnh hưởng văn hóa ẩm thực của người Tiều (Triều Châu). Nổi bật nhất trong các món thực phẩm của địa phương là xá bấu. Xá bấu được làm từ củ cải trắng phơi se se rồi trộn ướp với muối hột.
Đây là loại thực phẩm được chế biến thành nhiều món ăn. Đơn giản là xắt nhuyễn trộn trứng vịt tươi chiên, trộn giấm đường, hầm giò heo hoặc đuôi heo, xắt lát trộn tép và ba rọi luộc làm gỏi... Một thực phẩm khác có xuất xứ từ củ cải trắng là bánh củ cải. Bánh được làm bằng bột gạo pha với củ cải bào thành sợi cùng muối, đường, nước cốt dừa, cần tàu, cho vào khuôn giấy nhỏ như đóa hoa, đem hấp trong vài tiếng đồng hồ. Là “xứ Tiều Châu” nên Bạc Liêu không thể không có bán coóng xại. Được làm bằng dưa cải, với kỹ thuật đặc biệt, trộn đường muối và riềng, coóng xại ăn với cháo trắng ngon không thua gì xá bấu, lại có lợi cho đường tiêu hóa. Bạc Liêu được coi như là “quê hương” của loại cây có gốc trắng nõn, giòn, ngon có tên gọi dân dã là bồn bồn. Từ bùn đất xứ này mà bồn bồn ngoi lên, làm cuộc hành trình xa đến nhiều nơi trên đất nước, biến thành những món ăn cao cấp ở nhà dân, hàng quán, kể cả nhà hàng sang trọng. Xá bấu, coóng xại và bồn bồn được bán “tràn lan” khắp chợ thị xã Bạc Liêu. Riêng bánh củ cải chỉ được bán tại 2 quầy sạp của khu chợ miền cuối Việt này.
Bạc Liêu cũng là vùng giáp biển phương Nam với bãi bùn nên có nhiều ba khía. Ba khía là con vật giống cua đồng sống quanh các vùng ngập mặn và lợ. Lưng ba khía sần sùi, đen đúa, đặc biệt có ba cái khía làm thành khá nhiều món ngon. Ba khía sống, quen thuộc nhất, người ta “ngâm” nó cùng với muối hột thật mặn để làm thành “mắm”, mà người Nam bộ quen gọi đơn giản là “ba khía” (không có chữ mắm phía trước). Tại Bạc Liêu có khoảng 3 lò nổi tiếng cung cấp ba khía ngon cho các nơi khác. Tuy nhiên chịu khó đi tới phường Nhà Mát, cách trung tâm thị xã chừng 5 cây số, bạn sẽ mua được những con ba khía như ý, đặc biệt độc đáo hơn bất cứ nơi nào, duy nhất nơi đây mới cung cấp “ba khía ôm trứng” ngon nhức răng. Những con ba khía này đem về nhà trộn giấm đường tỏi ớt, chỉ cần ăn đùm trứng là tốn biết bao nhiêu cơm!
Tại phường Nhà Mát, gần khu vực Phật Bà Nam Hải là quần thể bán đủ các loại tôm, cua, ghẹ, các loại sò, các loại ốc, vọp, sam, các loại cá biển tươi sống, ruốc khô, tôm khô và khô cá biển... Cua biển Bạc Liêu ngon nức tiếng từ xưa nhờ duyên hải vùng này toàn đất bùn. Bất cứ thứ nào vừa kể mua đem về cũng khiến bạn “mỏi tay” pha chế, còn cả nhà thì “mỏi miệng” khen ngon!
Nguồn:comvanphong24h.com
- Details
- Hits: 1563
Núi Sam - Châu Đốc, ngoài những thắng cảnh nổi tiếng như: Tây An Cổ Tự, Chùa bà chúa Xứ, Lăng ông Thoại Ngọc Hầu,v.v. còn có một đặc sản không kém phần thú vị, đó là bò bảy món. Bò bảy món tuy đã nổi tiếng từ lâu, nhưng không được bày bán trong nhà hàng hoặc các quán địa phương. Một vài cửa hàng chỉ bán một trong bảy món cũng đủ nổi tiếng và làm giàu rồi. Chẳng hạn, tại chợ Châu Đốc có quán cháo đầu bò nổi tiếng. Du khách muốn thưởng thức đặc sản này thì phải chịu khó đến làng Vĩnh Tế trong những dịp lễ lạt, cưới hỏi, giỗ, tết...
Đó là lúc các gia đình trổ tài nấu bò bảy món để đãi khách. Các bô lão kể lại, từ lâu đời, làng Vĩnh Tế có tập tục bất thành văn là vào dịp tiệc tùng đãi khách đều nấu bò bảy món, nhất là lễ cưới. Cũng có người làm món bò bảy món theo lối Tàu, lối Tây, nhưng món do người Vĩnh Tế nấu mới ngon, mới độc đáo.
Bò bảy món gồm những món mà người thợ nấu lành nghề nào cũng phải biết: lòng bò luộc; bò đun, bánh hỏi; cháo đầu bò; bò khía bánh mì; bò xào lá vang; bò bít tết hoặc lúc lắc.
Để nấu bò bảy món, người thợ chính thống Vĩnh Tế ít khi ra chợ mua thịt làm sẵn, mà phải mua nguyên con bò còn sống và là bò tơ. Làm bò xong, người thợ dùng rơm thui cho da bò săn lại gọi là "bê thui"; miếng thịt còn cả da ăn mới ngọt và bùi.
Món dùng đầu tiên trong bò bảy món là lòng bò luộc. Lòng bò vốn dai và khó tiêu, nên người thợ nấu phải luộc nó với một bí quyết riêng. Sau khi luộc lòng bò mềm rồi, người ta nhúng vào một dung dịch pha riêng cho lòng bò săn lại. Và món lòng bò Núi Sam nổi tiếng vì hai đặc tính: mềm và giòn. Đĩa nước mắm chấm lòng bò phải là mắm nêm có trộn với khóm (dứa) băm nhuyễn theo nguyên lý âm dương, lòng bò luộc ăn cặp với rau sống, dưa leo thì khó tiêu; kèm với khóm cho dễ tiêu, do khóm có chất bromelin phân giải các tế bào protein của động vật).
Trong bò bảy món, người thợ nấu Núi Sam - Châu Đốc còn tự hào về món thịt bò xào lá vang. Ăn thịt bò xào lá vang phải dùng nước chấm phù hợp là: Tương hột băm nhuyễn nêm gia vị, trộn với sả băm nhỏ cho dễ tiêu. Cốt lõi của món này là ở lá vang. Thịt bò xào lá vang miệt Nhà Bàn, Tịnh Biên thì khẩu vị hơi khác, còn dùng lá vang miệt miền đông: Thủ Đức - Biên Hòa lại có mùi vị khác, người sành điệu dùng qua là biết.
Cây vang là loại dây leo, thân mầu xám, lá mầu xanh, hình bầu dục, mọc theo vách đá ở Núi Sam. ở miền đông, vùng Biên Hòa - Thủ Đức, lá vang thường mọc theo bụi, nơi có cọc rào, cây, để dây leo bám vào. Lá vang có vị chua. Thân cây khi chặt đứt có nhựa mầu sữa trắng chảy ra. Lợi dụng vị chua của lá vang, người thợ nấu hái lá rửa sạch, cắt thành sợi, xào với thịt bò, có nước cốt dừa và rắc lên đậu phộng (lạc) giã nhỏ.
Cùng với các món khác, món lòng bò và bò xào lá vang đã tạo cho bò bảy món Núi Sam những hương vị riêng biệt, chỉ một lần ăn là du khách nhớ mãi không quên.
Nguồn:comvanphong24h.com
- Details
- Hits: 1331
Bên cạnh đặc sản mắm làm nên thương hiệu ẩm thực Châu Đốc, mảnh đất này còn nổi tiếng bởi bánh bò thốt nốt vàng ươm khiến ai ăn đều gật gù khen ngợi.Đến Châu Đốc, An Giang, qua các huyện Tri Tôn, Tịnh Biên…, đâu đâu bạn cũng bắt gặp cây thốt nốt. Có thể nói thốt nốt là đặc trưng của người Khmer Nam Bộ và là loại cây đa dụng của vùng Thất Sơn huyền bí.
Lá thốt nốt được dùng để lợp nhà, làm chất đốt, cây già làm cột nhà, làm bàn ghế… Riêng, trái thốt nốt để lại dư vị khó quên trong lòng du khách với những món ăn dân dã như: cơm (cùi) thốt nốt, nước thốt nốt tươi (hoặc lên men), đường tán, chè thốt nốt, bánh gói thốt nốt… Trong đó, món ăn gây ấn tượng cho du khách mỗi khi đến Châu Đốc trong mùa thu hoạch trái là bánh bò thốt nốt.
Theo các bà bán bánh nơi đây, làm món bánh bò thốt nốt hơi mất công một chút. Bánh gồm các nguyên liệu chính: bột gạo, bột thốt nốt, đường thốt nốt, nước cốt dừa, và phải tuân thủ theo đúng quy trình.
Làm bánh mất công nhưng khi ăn thì ai nấy đều thỏa mãn.
Trước tiên, gạo phải là gạo nàng Nhen cũ, đặc sản vùng Bảy Núi, xay thành bột. Mài trái thốt nốt già chín, gạn lấy bột. Đường thốt nốt chọn loại đường tán, không lẫn tạp chất và một ít nước cốt dừa. Cho tất cả hỗn hợp trên vào thau trộn đều cùng ít nước với tỷ lệ vừa đủ, ủ kín qua đêm.
Nên nhớ cần thêm một ít nước cơm rượu vào để bột lên men nhanh, và khi hấp chín, bánh xốp mới thơm ngon. Tiếp đến, dùng vá đổ bột vào khuôn tròn hay vuông tùy thích, cho vào xửng hấp chừng 20 phút, khi thấy mùi thơm tỏa lên ngào ngạt là chín. Cuối cùng, giở xửng lấy bánh ra, rắc một ít dừa nạo lên, và dùng “lá soong”, thứ lá đặc biệt ở vùng Châu Đốc, hoặc lá chuối xiêm gói bánh lại là xong.
Bánh bò thốt nốt có màu vàng ươm thơm ngon.
Cầm cái bánh bò thốt nốt màu vàng ươm còn nóng hổi đưa lên miệng nhai chậm rãi. Vị xôm xốp của bánh, ngọt béo của đường, của dừa, hòa lẫn mùi thơm thoảng đặc trưng của đường thốt nốt xông lên tận mũi, không lẫn vào đâu được.
Có dịp về miền Tây vào lễ hội vía Bà, bạn sẽ vô cùng thích thú khi được khám phá những di tích lịch sử văn hóa nơi đây cũng như những món ẩm thực độc đáo từ trái thốt nốt – đặc sản của vùng Bảy Núi này.
Nguồn:comvanphong24h.com
- Details
- Hits: 1013
Quê nội của tôi thuộc một tỉnh nằm ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Tuổi thơ tôi lớn lên từ đó và gắn liền với với những ngày hè thả diều trên những cánh đồng vừa gặt xong mùa lúa, với những con sông phù sa nước lớn ròng thật hiền hòa, cùng những vườn cây say trái sau nhà nội. Tuy vậy, ấn tượng trong tôi vẫn là những mùa nước nổi nơi đây. Mùa này, ngoài tôm cá đầy đồng, còn xuất hiện nhiều loại rau trái đặc trưng, mang đậm chất miền Tây Nam bộ.
Trái cà na có hình bầu dục, to bằng đầu ngón tay. Trái non có màu xanh, đến lúc chín ngả sang màu vàng lợt, vị chua chát thật hấp dẫn.
Có dịp về lại thăm quê nội sau những ngày bận rộn với công việc và cuộc sống ở xứ người, đi dọc hai bên đường làng, tôi lại bắt gặp hình ảnh trái cà na căng tròn màu xanh ươm, có vị chua, chát của năm này. Bất chợt bao ký ức về tuổi thơ trong tôi lại hiện về. Tôi nhớ rất rõ hai bên đường làng vào nhà nội năm nào có rất nhiều hàng cà na mọc san sát mé sông với cành lá sum suê. Và để hái được trái cà na, người dân miền Tây quê tôi phải dùng đến chiếc xuồng nhỏ bơi đi bơi lại mới hái được hết trái trên cây.
Không ai nhớ cây cà na có từ bao giờ, nhưng với người dân miền sông nước miền Tây, cà na là người bạn gắn liền với tuổi thơ của bao thế hệ. Và kể từ đó, trái cà na được xem là một đặc sản nơi đây vì không phải lúc nào cũng có cà na, muốn ăn cà na phải chờ vào khoảng thoáng 8-9 (khoảng tháng 7 âm lịch hàng năm), mùa thu hoạch loại trái này.
Hồi đó, mỗi khi mùa nước về, cây cà na rất say trái. Vì trái cà na không cho năng suất kinh tế cao, nên người dân quê tôi chỉ dùng để ăn chơi chứ không nhân giống rộng rãi đế trồng và hái bán như bây giờ.
Từ bao đời nay, cây cà na trở thành người bạn thân quen đối với người dân miền Tây như tôi. Rễ cây cà na thường bám chặt lấy nhau thành chùm nên giữ đất và có công dụng chắn sóng rất tốt. Bông cà na búp có màu xanh lợt, khi nở lại có màu trắng rất đẹp. Đến mùa nước nổi, những bông ấy sẽ trở thành những chùm trái căng tròn. Trái cà na có hình bầu dục, to bằng đầu ngón tay. Trái non có màu xanh, đến lúc chín ngả sang màu vàng lợt, vị chua chát thật hấp dẫn.
Với tôi, cà na là một loại trái hấp dẫn. Chính vị chua chát của cà na khi đem biến tấu sẽ cho ra nhiều món ngon và hấp dẫn, như cà na muối, cà na ngào đường...
Cà na muối có vị chua ngọt hòa cùng vị cay rất thú vị.
Hồi nhỏ, vì thích ăn những trái cà na tươi sống, nên tôi thường cùng đám bạn rủ nhau đi hái cà na trước mé song nhà nội. Cách ăn cà na hồi xưa của chúng tôi cũng đơn giản lắm. Trước khi ăn loại trái này, tôi và đám bạn đều chà trái vào áo cho hơi dập, rồi chấm với muối ớt. Ôi cái vị chua chát và dân dã của loại trái này sao khiến cho chúng tôi mê mẩn đến thế. Những trái ăn không hết, tôi thường mang về nhà để dành đó, rảnh rỗi lấy ra ăn. Các cô của tôi thấy vậy, mang trái đi rửa sạch, để ráo nước, rồi chuẩn bị cho món cà na muối và ngào đường.
Những đứa trẻ còn nhỏ như tôi thời đó cũng góp ít công sức để phụ cô sơ chế. Cô tôi dạy, để chế biến cà na đúng cách, phải lấy một con dao nhỏ, cắt bỏ cuống, rạch dọc vài đường trên thân trái, để khi trộn sẽ rất ngấm gia vị. Phần cà na muối, cô của tôi đem trộn với hỗn hợp gồm nước mắm, ớt, đường... rồi cho vào hũ, chỉ sau 2 ngày là có thể lấy ra ăn rất ngon rồi. Còn món cà na ngào đường thì cô bảo, tưởng chừng đơn giản nhưng lại là cả một kỳ công, để trái cà na vừa ngon mà không bị nát là tuỳ thuộc rất nhiều vào tay nghề cùng kinh nghiệm của người làm.
Phần ca na ngào với đường, cô dạy phải để lửa rêu rêu cho đường không bị cháy khét và cà na sẽ được ngấm đường từ từ, tạo thành hỗn hợp sền sệt để dành được lâu ngày hơn. Công nhận làm cách này, trái cà na ăn không còn vị chua chat mà thay vào đó là rất bắt mắt và lại rất ngon miệng nha. Ăn cà na không thể thiếu chén muối ớt trộn cho thật cay, càng cay càng ngon và kích thích khẩu vị. Đây được xem là món ăn khoái khẩu của tôi cũng như biết bao đứa bạn cùng lứa thời đó.
Giờ đây, trái cà na được người dân miền Tây trồng nhiều hơn, nhưng giá vẫn không cao. Nếu trái còn sống cỡ 10.000 đồng một kg. Mỗi lần nhớ quê hương và thèm loại trái này, tôi cũng ra chợ tìm mua vài ký, rồi mang về tập tành làm hoặc mua của người ta làm sẵn. Dù làm cách nào đi chăng nữa tôi vẫn thấy cái vị của trái cà na nó không giống như những món hồi xưa tôi được các cô làm cho ăn!
Và ngày nay, loại trái này được tôi xem là những món quà quê, bởi hầu như vào những tháng 8,9, có dịp người thân ở quê lên thành phố đều mang tặng cho tôi những hộp cà na muối hoặc ngào đường rất thơm ngon và bắt mắt.
Cà na ngào đường cũng là món ăn hấp dẫn.
Trái cà na tuy dân dã, nhưng đã đi vào ca dao của người dân vùng sông nước:
"Xứ đâu là xứ quê mùa
Đi thăm cháu ngoại cho vùa cà na"
Quả thật những món ăn chế biến từ trái cà na tuy không cầu kỳ, nhưng đã trở thành hương vị quê nhà rất khó phai trong lòng những người con xa quê như tôi.
Và một mùa nước nổi nữa lại về. Bất chợt những ký ức của tuổi thơ năm nào một lần nữa lại ùa về trong tôi đến nao lòng.
Nguồn:comvanphong24h.com
- Details
- Hits: 912
Theo truyền thống vào mỗi vụ mùa trước khi thu hoạch lúa chín người dân Khmer sẽ ra đồng gặt nếp về làm om bóc srâu thmây (cốm dẹp đầu mùa). Người Khmer gọi cốm dẹp là “om bóc” đặc sản từ hơn 100 năm trước đến nay vẫn được bà con làm để cúng các vị thần: thần Neac ta srê (thần đồng) và Preas chanh (thần Mặt trăng) nhằm tỏ lòng biết ơn cho một vụ mùa bội thu và nguyện cầu cho năm sau thời tiết đất trời thuận lợi cho mùa màng tốt tươi.
Nếu người Hà Nội tự hào vì có cốm Làng Vòng thì người Khmer ở Trà Vinh, Sóc Trăng, An Giang cũng có món nếp dẹp để mời khách phương xa mỗi khi đến thăm nhà vào mùa gặt. Nếp trước lúc thu hoạch khoảng 10 ngày còn chưa già sẽ được gặt về trút lấy hạt ngâm nước nửa ngày vớt ra để ráo. Ngâm nếp phải canh giờ nếu không ngâm lâu hạt nếp mềm cốm sẽ nhão, ngâm thời gian ngắn thì hạt nếp sẽ khô cứng. Rang nếp phải là người quen tay và rang trong nồi đất nhằm giữ được nhiệt nóng lâu hơn. Một lần rang rất mất thời gian và công sức chỉ một chén nếp, trút vừa đáy nồi đất giúp việc đảo rang được dễ dàng và hạt nếp nở chín dẻo đều.
Nhâm nhi miếng cốm dẹp để cảm nhận hương vị dẻo dai, ngọt, thơm nồng, béo, bùi trong từng hạt nếp.
Khi nếp rang vừa nổ thì trút ra cối bồng (cối giã gạo ngày xưa nhưng khoét rất sâu lòng) để vọt (giã). Chày vọt, cối, nạy (dùng để đảo cốm lúc giã) được làm từ thân cây vú sữa già, bởi người Khmer quan niệm thân cây vú sữa có chứa dòng sữa của sự sinh sôi nảy nở tốt cho mùa màng về sau. Vọt cốm thường có hai người đứng đối diện nhau, mỗi người một chày, vừa vọt vừa dùng cây nạy đảo nếp để hạt cốm không bị gãy nát.
Vọt khéo thì hạt cốm dẹp tròn đều, mạnh tay quá thì hạt cốm bị nát nhỏ vụn mất đẹp. Cốm giã xong đến công đoạn sàng sảy làm sạch. Người Khmer dùng nia sàng sẩy hết vỏ (trấu), cám, tấm trong cốm. Nếu bạn cùng người dân Khmer tham gia làm cốm mới thấy hết được sự kì công của món ăn truyền thống này. Cốm dẹp trước khi ăn bao giờ cũng được trộn thêm đường, dừa vào. Dừa chọn trái già nạo nhỏ cho vào trong cốm, trộn đều với đường, vừa trộn vừa rắc thêm ít nước dừa cho mềm và thêm chút muối cho đậm đà. Ủ cốm khoảng 2 giờ cho dừa, đường thấm vào từng hạt nếp là có thể thưởng thức.
Ngày nay ở một số gia đình người Khmer làm cốm dẹp để bán có thêm đậu phộng giã vào cho tăng phần bùi béo. Nhưng ngon nhất vẫn là ăn cốm dẹp theo cách truyền thống. Cho một ít cốm lên trên miếng lá chuối dùng tay bốc ăn, nhâm nhi để cảm nhận tròn vị dẻo dai, ngọt, thơm, nồng, béo, bùi trong từng hạt cốm. Cách ăn này vẫn còn trong lễ hội Ok om bok (lễ cúng trăng tạ ơn và cầu cho mùa màng tốt tươi).
Nếu có dịp về Trà Vinh, Sóc Trăng, An Giang trước mùa gặt bạn hãy ăn cốm dẹp để biết thêm hương vị cốm mới của người Khmer.
Nguồn:comvanphong24h.com
- Details
- Hits: 1395
Mùi thơm của thịt cá sặc nướng, vị ngọt béo của thịt ba chỉ... hòa lẫn cùng vị đắng của lá sầu đâu thấm dần vào vị giác, dân dã, lạ miệng và rất tinh tế. Sầu đâu là loại cây hoang dã, mọc nhiều nhất ở vùng Châu Đốc - An Giang, Hà Tiên - Kiên Giang... Nếu có dịp ghé chợ Tri Tôn (Châu Đốc - An Giang) hoặc Hà Tiên - Kiên Giang, bạn sẽ bắt gặp rất nhiều bó lá và hoa sầu đâu được bán khắp chợ.
Cây sầu đâu có hoa màu trắng, lá có vị đắng. Hằng năm, vào khoảng tháng 11 đến tháng 3 Âm lịch là thời điểm cây sầu đâu bắt đầu thay lá, ra hoa, thường được người dân mua về để trộn chung với các nguyên liệu khác như khô cá sặc, thịt ba chỉ, tôm luộc, dưa leo, xoài sống, các loại rau thơm... tạo nên món gỏi sầu đâu đặc trưng nổi tiếng chỉ có ở những vùng đất này.
Sầu đâu ngon nhất là lá non và hoa.
Món gỏi sầu đâu được biết đến là món ăn của người Campuchia, dùng như một món rau trong bữa cơm hằng ngày. Món ăn này du nhập vào Việt Nam thông qua những gia đình người Khơ me sinh sống ven biên giới Việt Nam như ở các tỉnh như An Giang, Kiên Giang...
Người sành ăn món này cho rằng sầu đâu ngon nhất là hoa và lá non. Vì vậy để chế biến món ăn này, nguyên liệu chính là lá non và hoa sầu đâu. Do loại lá có vị rất đắng nên người dân đã biết cách tiết chế vị đắng bằng cách sau khi lặt những lá non, rửa sạch, rồi cho lá vào nồi chần qua nước sôi để giảm vị đắng (khi chần nên cho ít muối vào để giữ màu xanh của lá). Tuy nhiên, nếu muốn giữ trọn vẹn vị đắng của sầu đâu thì không cần trụng qua nước sôi, mà chỉ ướp nước đá cho lá sầu đâu được tươi giòn.
Ngoài lá và hoa sầu đâu, còn có các nguyên liệu kèm theo để cho ra một đĩa gỏi sầu đâu ngon lạ như khô cá sặc nướng xé nhỏ, thịt ba chỉ luộc chín cắt miếng và dưa leo rửa sạch bàu mỏng, ớt thái mỏng để trang trí cho món thêm đẹp mắt. Sau khi nguyên liệu được chuẩn bị xong, trộn tất cả với nhau, rưới đều nước mắm ớt tỏi pha chua ngọt lên trên, rồi trộn lại thật đều một lần nữa cho gia vị thấm trước khi bày ra đĩa.
Một thành phần quan trọng làm nên vị ngon lạ cho món chính là nước mắm me chua ngọt để chấm cùng. Cho ít nước vào hỗn hợp tỏi ớt giã nhuyễn và đun đến khi vừa ấm thì cho mắm me vào dầm đến khi me tan đều, nêm thêm ít đường và nước mắm sao cho hài hòa các vị chua, cay, mặn, ngọt. Tiếp tục khuấy đều tay và đun sôi hỗn hợp cho đến khi nước chấm kẹo lại là ngon.
Món gỏi này có thể dùng kèm với cơm nóng rất ngon miệng. Gắp một miếng gỏi gồm khô cá sặc, thịt ba chỉ kẹp với dưa leo và đặc biệt là lá sầu đâu, rồi chấm với một ít nước mắm me chua ngọt, bạn sẽ cảm nhận được vị đắng thanh kết hợp vị chua của nước chấm. Người sành ăn món này cho rằng, khi ăn mới đầu có cảm giác đăng đắng ở lưỡi, nhưng khi nhai thật kỹ nuốt vào thì lại có cảm giác ngọt thanh trong cuống họng, càng ăn càng nghiện. Món ăn tuy dân dã, không cầu kỳ, nhưng lại mang đến cho người thưởng thức nhiều trải nghiệm thú vị.
Nguồn: comvanphong24h.com
- Details
- Hits: 1475
Những hạt nếp dẻo thơm, vàng ruộm, bóng mỡ được chiên phồng lên ăn cùng với gà quay thơm lừng là món ăn bạn không thể quên được nếu ghé vùng Chợ Mới, An Giang.Chợ Mới ở đầu nguồn sông Hậu, được phù sa bồi đắp quanh năm nên hạt lúa nếp ở đây chất lượng, hạt tròn, vị ngon. Nếp kết hợp với đậu trồng trên đất rẫy, tưới nước ngọt đã sản sinh ra món xôi dẻo thơm.
Theo cách nấu xôi truyền thống, đậu và nếp được hấp chín đều, không nhão cũng không khô. Sau đó, những người phụ nữ đất cù lao dùng chày quết nhuyễn hỗn hợp nếp và đậu lại cho thật dẻo, cho thêm chút dầu ăn để chống dính cũng như tạo độ bóng, kế đến là nhồi xôi, trộn đường, ép xôi.
Xôi phồng Chợ Mới sau khi quết thường được cho vào khay hoặc quấn lại thành cuốn tròn. Khi muốn dùng, thực khách chỉ cần cắt từng khoanh vừa ăn rồi chiên với dầu nóng cho căng phồng lên. Khi chiên phải dùng chảo gang dành riêng cho món này. Vá để dằn và xoay, lật xôi trong quá trình chiên cũng là loại làm bằng gang, lưỡi vá bằng chứ không trũng.
Xôi chiên phồng trông lạ mắt
Người chiên xôi phải kiên nhẫn, khéo léo và đều tay khi xoay trở thì mới tạo được độ phồng tròn đều, chín vàng cả phần ngoài lẫn bên trong. Khi cắt ra không có phần xôi dư, cắn vào miếng xôi thấy giòn nhưng vẫn giữ được sự mềm mại của nếp, vị ngọt nhẹ của đường và mùi thơm của các thứ quyện lại. Xôi chiên có màu vàng ươm, thơm.
Thưởng thức xôi chiên phồng Chợ Mới, bạn có thể chấm với tương ớt, xì dầu hoặc ăn không vẫn rất hấp dẫn, nhưng ngon hơn cả là với gà quay. Gà nuôi thả trong vườn nên thịt dai và ngọt, được quay thủ công nên giữ được vị thơm và mùi vị đặc trưng. Ngoài ra, nhiều du khách đến đây còn ăn xôi chiên phồng với gà luộc thay cho bữa ăn chính.
Chợ Mới có nhiều cơ sở làm xôi. Trong mâm quả đi cưới ở đây hiện vẫn phải có mâm xôi truyền thống.
Ăn xôi chiên phồng Chợ Mới có thể chấm với tương ớt, xì dầu hoặc ăn không vẫn “bắt”. Khách đến Chợ Mới, cù lao Giêng có thể thưởng thức xôi chiên với gà quay. Gà được nuôi thả vườn nên thịt dai và ngọt, được quay thủ công nên giữ được vị thơm của gà và mùi vị đặc trưng. Xôi phồng Kim Hương của bà Hồng Thu ở thị trấn Chợ Mới được nhiều người biết đến nhất.
Nguồn:comvanphong24h.com
- Details
- Hits: 2196
Người Chăm ở An Giang sống tập trung tại các huyện An Phú, Tân Châu và Phú Tân. Người Chăm An Giang theo đạo Hồi nên không ăn thịt heo, chỉ ăn thịt bò. Món ăn truyền thống và yêu thích của họ là cà ri và cà púa.Cà ri là món ăn ưa thích họ học theo người Ấn Độ, còn cà púa thì bắt chước người Thái Lan. Thịt cà ri xắt sao cũng được, cà púa ngoài việc cho gia vị mạnh và cay hơn cà ri, thêm đậu phộng. Sau khi làm cà púa, phần thịt vụn được người ta dùng làm “tung lò mò” (lạp xưởng bò), như một cách “tận dụng”.
Theo tiếng Chăm “tung” nghĩa là ruột, “lò mò” là con bò, dịch ra tiếng Việt nghĩa là lạp xưởng bò. Theo truyền thuyết, vào thời hỗn mang trái đất hoàn toàn tĩnh lặng. Cảm thấy buồn khi không có sự sống trên trần gian, thượng đế (Allah) đã sai sứ thần lấy bốn loại đất sét đen, trắng, vàng, đỏ tạo thành người đàn ông đầu tiên là Nabi Adam, có xác nhưng chưa có hồn. Sự xuất hiện của ông Adam đã làm cho ma quỷ lo sợ quyền uy của chúng sẽ bị mất. Chờ cho Adam ngủ mê, chúng mới kéo lại phóng uế lên người ông để làm nhục. Khi tỉnh dậy, ông thấy toàn thân thể mình là những thứ hôi thối, ông đau khổ và xấu hổ vô cùng.
Thượng đế sai lấy nước thiên đàng tắm rửa cho Adam. Trong quá trình tẩy rửa, những chất dơ bẩn trên thân thể Adam đã biến thành con heo, con chó. Sau khi tẩy rửa xong Adam có lời thề: "Heo và chó là kẻ thù của ta và con cháu ta sau này". Chính vì thế, đối với người Chăm (theo Hồi giáo) thịt heo là thực phẩm cấm kị.
Món lạp xưởng bò làm theo đúng gốc của người Chăm là lấy những phần thịt “tận thu” của con bò như lóc thịt bò vụn còn sót trên xương, mỡ bò và ruột bò. Tuy nhiên, để được tung lò mò ngon nhất, người ta phải lấy thịt bò ngon như: đùi, bắp hoặc thịt bò nạc lóc từ xương. Sau khi khử mùi bò bằng rượu và gừng, thịt bò được loại bỏ hết gân và bầy nhầy thì xắt nhuyễn.
Khi làm tung lò mò, thịt và mỡ bò phải theo tỷ lệ hai thịt một mỡ và mỡ bò dùng làm lạp xưởng là loại mỡ sa, mỡ chày vừa mỏng, vừa không nặng mùi như mỡ thăn. Sau đó, trộn đều hỗn hợp thịt với tiêu sọ, hoa hồi, một số gia vị thông thường và một loại gia vị bí truyền của người Chăm. Ruột bò lộn bề trái, cạo, rửa nước muối thật sạch rồi lộn lại, phơi hơi se.
Thịt trộn xong, để cho thấm, dồn vào ruột bò, thắt từng khúc dài khoảng 3 đốt tay, tròn cỡ ngón chân cái, phơi chừng 3 nắng là có thể dùng được. Tung lò mò để càng lâu càng ngon. Để món tung lò mò trở thành món ngon độc đáo, người Chăm còn cho vào đó một nguyên liệu đặc biệt - cơm nguội. Cơm nguội khi được lên men có vị chua lạ miệng cho người ăn.
Cũng giống như lạp xưởng, thưởng thức “tung lò mò” tuyệt nhất là nướng (kilete) hoặc chiên (chuh), nhưng phải còn nóng mới không có mùi tanh của mỡ bò. “Tung lò mò” nướng chín tới đâu, ăn tới đó. Ngồi cạnh bếp than hồng, nhìn từng khúc “tung lò mò” chín đỏ mỡ nhểu xèo xèo trong đám khói tỏa mùi thơm ngào ngạt, đã thấy thèm. Gắp cắn một miếng, vị ngọt bùi của thịt và mỡ bò, vị chua chua của cơm nguội lên men hòa cùng gia vị cay nồng xông vào khẩu cái, lại nghe vị ngọt giòn thơm của rau sống, cần ống, vị chua của khế, vị chát của chuối sống tan thấm trên mặt lưỡi.
Nguồn:comvanphong24h.com
- Details
- Hits: 2183
Người Chăm ở An Giang sống tập trung tại các huyện An Phú, Tân Châu và Phú Tân. Người Chăm An Giang theo đạo Hồi nên không ăn thịt heo, chỉ ăn thịt bò. Món ăn truyền thống và yêu thích của họ là cà ri và cà púa.Cà ri là món ăn ưa thích họ học theo người Ấn Độ, còn cà púa thì bắt chước người Thái Lan. Thịt cà ri xắt sao cũng được, cà púa ngoài việc cho gia vị mạnh và cay hơn cà ri, thêm đậu phộng. Sau khi làm cà púa, phần thịt vụn được người ta dùng làm “tung lò mò” (lạp xưởng bò), như một cách “tận dụng”.
Theo tiếng Chăm “tung” nghĩa là ruột, “lò mò” là con bò, dịch ra tiếng Việt nghĩa là lạp xưởng bò. Theo truyền thuyết, vào thời hỗn mang trái đất hoàn toàn tĩnh lặng. Cảm thấy buồn khi không có sự sống trên trần gian, thượng đế (Allah) đã sai sứ thần lấy bốn loại đất sét đen, trắng, vàng, đỏ tạo thành người đàn ông đầu tiên là Nabi Adam, có xác nhưng chưa có hồn. Sự xuất hiện của ông Adam đã làm cho ma quỷ lo sợ quyền uy của chúng sẽ bị mất. Chờ cho Adam ngủ mê, chúng mới kéo lại phóng uế lên người ông để làm nhục. Khi tỉnh dậy, ông thấy toàn thân thể mình là những thứ hôi thối, ông đau khổ và xấu hổ vô cùng.
Thượng đế sai lấy nước thiên đàng tắm rửa cho Adam. Trong quá trình tẩy rửa, những chất dơ bẩn trên thân thể Adam đã biến thành con heo, con chó. Sau khi tẩy rửa xong Adam có lời thề: "Heo và chó là kẻ thù của ta và con cháu ta sau này". Chính vì thế, đối với người Chăm (theo Hồi giáo) thịt heo là thực phẩm cấm kị.
Món lạp xưởng bò làm theo đúng gốc của người Chăm là lấy những phần thịt “tận thu” của con bò như lóc thịt bò vụn còn sót trên xương, mỡ bò và ruột bò. Tuy nhiên, để được tung lò mò ngon nhất, người ta phải lấy thịt bò ngon như: đùi, bắp hoặc thịt bò nạc lóc từ xương. Sau khi khử mùi bò bằng rượu và gừng, thịt bò được loại bỏ hết gân và bầy nhầy thì xắt nhuyễn.
Khi làm tung lò mò, thịt và mỡ bò phải theo tỷ lệ hai thịt một mỡ và mỡ bò dùng làm lạp xưởng là loại mỡ sa, mỡ chày vừa mỏng, vừa không nặng mùi như mỡ thăn. Sau đó, trộn đều hỗn hợp thịt với tiêu sọ, hoa hồi, một số gia vị thông thường và một loại gia vị bí truyền của người Chăm. Ruột bò lộn bề trái, cạo, rửa nước muối thật sạch rồi lộn lại, phơi hơi se.
Thịt trộn xong, để cho thấm, dồn vào ruột bò, thắt từng khúc dài khoảng 3 đốt tay, tròn cỡ ngón chân cái, phơi chừng 3 nắng là có thể dùng được. Tung lò mò để càng lâu càng ngon. Để món tung lò mò trở thành món ngon độc đáo, người Chăm còn cho vào đó một nguyên liệu đặc biệt - cơm nguội. Cơm nguội khi được lên men có vị chua lạ miệng cho người ăn.
Cũng giống như lạp xưởng, thưởng thức “tung lò mò” tuyệt nhất là nướng (kilete) hoặc chiên (chuh), nhưng phải còn nóng mới không có mùi tanh của mỡ bò. “Tung lò mò” nướng chín tới đâu, ăn tới đó. Ngồi cạnh bếp than hồng, nhìn từng khúc “tung lò mò” chín đỏ mỡ nhểu xèo xèo trong đám khói tỏa mùi thơm ngào ngạt, đã thấy thèm. Gắp cắn một miếng, vị ngọt bùi của thịt và mỡ bò, vị chua chua của cơm nguội lên men hòa cùng gia vị cay nồng xông vào khẩu cái, lại nghe vị ngọt giòn thơm của rau sống, cần ống, vị chua của khế, vị chát của chuối sống tan thấm trên mặt lưỡi.
Nguồn:comvanphong24h.com
- Details
- Hits: 1722
Từ lâu, An Giang rất nổi tiếng với các đặc sản như mắm Châu Đốc, đường Thốt Nốt, lụa Tân Châu… nhưng tại thị trấn Phú Mỹ, huyện Phú Tân còn có một đặc sản nổi tiếng là bánh phồng.Làng nghề bánh phồng Phú Mỹ hình thành, tồn tại và phát triển gần 70 năm nay, có 50 cơ sở sản xuất, thu hút khoảng 300 lao động. Trong đó, các gia đình nổi tiếng có truyền thống làm bánh như gia đình cụ Lê Minh Dơn, Ngô Thị Dờn, Trần Văn Tâm…
Theo các bậc cao niên tại làng nghề, nguyên liệu làm bánh phồng là loại nếp đặc sản được trồng tại địa phương. Các công đoạn làm bánh rất công phu. Người làm bánh chọn loại nếp rặt, ngon. Nếp được ngâm đúng ba ngày ba đêm, đãi cho sạch nước đục, đem xôi lên rồi bỏ vào cối quết. Sau khi nếp được quết nhuyễn, đem ra cán thành bánh, phơi nắng rồi đem vào nhúng nước đường và phơi lại lần nữa cho khô mới đóng gói. Các phụ gia như đậu, mè, sữa… được đưa lần lượt vào bánh theo từng công đoạn. Trước đây, người làm bánh quết bột bằng chày tay, nay đã có máy kéo chày thay thế nên người làm bánh đỡ nhọc công và sản phẩm được cải thiện rõ nét cả về chất lượng lẫn số lượng.
Bánh phồng Phú Mỹ nhỏ bằng cái dĩa nhưng nướng chín phồng to hơn cái quạt nan. Bánh vừa xốp, vừa mềm, cắn vào nghe “phao” miệng bởi vị béo của nếp, vị ngọt của đường, mùi thơm của sữa, mè, đậu nành, đậu phộng… tạo nên hương vị đặc trưng và không thể thiếu trong bữa ăn ngày Tết hay các dịp đám tiệc, cưới hỏi. Thời gian qua, bánh phồng Phú Mỹ được người tiêu dùng ưa chuộng nên làng nghề phát triển mạnh và sản xuất quanh năm, nhộn nhịp nhất là tháng giáp Tết. Hiện bánh phồng Phú Mỹ có giá từ 3.000 — 4.000 đồng/chục, tùy loại bánh.
Những kỳ hội chợ hay triển lãm tại An Giang, Cần Thơ hoặc TP Hồ Chí Minh, bánh phồng Phú Mỹ đều có mặt trong gian hàng trưng bày sản phẩm đặc sản của An Giang. Làng bánh phồng Phú Mỹ đã được UBND tỉnh An Giang công nhận làng nghề truyền thống vào cuối năm 2006. Nếu có dịp đến An Giang, bánh phồng Phú Mỹ là một món quà rất có ý nghĩa để du khách mang về làm quà cho người thân.
Nguồn:comvanphong24h.com
- Details
- Hits: 861
Khi có dịp lên huyện Lục Yên - tỉnh Yên Bái, du khách có thể thưởng thức món khoai môn (khoai tím) Lục Yên hầm xương lợn. Món ăn nhìn qua thấy bình thường, nhưng ăn rồi thì khó quên nó là một trong những dac san yen bai. Nó bùi, béo, dẻo, bở và có mùi thơm riêng biệt của khoai môn nơi đây mà không có thứ khoai nào có được.
Ở những phiên chợ vùng cao Lục Yên (Yên Bái) đồng bào dân tộc thiểu số thường mang bán thứ khoai sọ đặc sản chỉ có ở vài nơi thuộc mấy tỉnh miền núi phía Bắc.
Đứng xa thoạt nhìn, thấy củ khoai sọ có độ lớn và hình dáng hao hao củ nâu. Khoai chỉ có một củ cái, nếu thu hoạch sớm thì củ chỉ bằng hai bàn tay khum lại chụm vào nhau, còn khoai già, cỡ lớn thì tương đương cái ấm tích pha chè tươi. Nếu được thưởng thức hương vị bùi, thơm, bở, dẻo và đậm đà của thứ khoai đặc sản này, thứ khoai mà ăn no, ăn liên tục cũng vẫn không biết chán, thì mới biết đây là thứ khoai quý.
Đồng bào ở miền núi gọi đó là khoai Dao, khoai Xá vì chỉ có người Dao, người Xá mới trồng được trên nương của họ. Nhiều người khác còn gọi là khoai môn họ giải thích câu "Lên rừng nhớ vợ, nhớ con. Về nhà nhớ củ khoai môn trên rừng", ngụ ý: Khoai ngon đến mức mà người từ biên ải được trở về xuôi sum họp với gia đình rồi lại thấy nhớ da diết củ khoai môn như khi ở trên rừng nhớ những người thân yêu nhất nơi quê hương miền xuôi.
Cứ vào độ sau Tết âm lịch, là bà con người Dao ở huyện Lục Yên lại tìm những sườn đồi, hoặc các hố đất trên núi đá đào hố đặt mầm khoai. Đến đầu mùa đông khi lá khoai vàng héo là thu hoạch.
Nếu nói về họ nhà khoai thì khoai lang dây củ loằng ngoằng khoai sọ, khoai từ thì có củ mẹ của con còn khoai môn thì duy nhất chỉ có một củ. Khoai môn nếu dỡ sớm thì củ có hình bầu dục tựa như hai bàn tay khum khum khép lại; dỡ đúng kỳ thì củ to hơn, có mầu nâu sẫm nặng trên 1kg. Bên Trung Quốc có thứ khoai Lệ Phố, một đặc sản chuyên để biếu vua nhìn bề ngoài cũng từa tựa như khoai môn Lục Yên.
Nguồn:comvanphong24h.com
- Details
- Hits: 1953
"Nếp Tú Lệ, tẻ Mường Lò", câu ca dao của dân tộc Thái ấy từ lâu không chỉ được truyền tụng khắp vùng Tây Bắc, hương vị độc đáo của giống gạo quý ấy còn bay xa khắp mọi vùng đất nước. Đặt chân đến Tú Lệ vào ngày mùa, cả thung lũng man mác hương thơm của lúa, của đất.
Người già ở Tú Lệ vẫn kể cho con cháu nghe giai thoại về giống Tan Lả Tú Lệ: "Ngày xưa, đã lâu lắm rồi, tổ tiên của người Thái được tiên ông ban cho một giống thóc quý. Tiên ông dạy rằng: Hãy tìm một nơi thích hợp để gieo trồng, sẽ được loại nếp thơm ngon đặc biệt".
Nhưng rồi giống lúa ấy gieo ở khắp vùng Tây Bắc đều không có kết quả như ý, nơi thì thóc không nảy mầm, nơi thì lúa còi cọc bông lép. Chỉ khi tới chân đèo Khau Phạ (sừng trời), dừng chân bên con suối Mường Lùng, lúa gieo xuống bỗng xanh tốt lạ thường, ngay từ khi lúa còn con gái đã tỏa ra một hương thơm tinh khiết. Còn gạo nếp ấy thơm dẻo béo ngậy và ngọt đậm vô cùng. Con trai bản ăn giống nếp ấy khỏe mạnh dẻo dai, làm ruộng nương không biết mệt, tiếng khèn làm say lòng gái bản. Các cô gái Thái ăn giống nếp ấy, nước da trắng hồng mịn màng, mái tóc đen nhánh xuôn dài mềm mại, quay xa dệt vải, hoa văn như có hồn làm trai bản ngẩn ngơ thổn thức.
Giống Tan Lả quý ấy mang đi nơi khác trồng không còn giữ được hương vị tuyệt hảo đặc trưng dù vẫn làm cho thực khách gật gù thán phục. Người sành điệu còn khẳng định rằng, chỉ ăn nếp Tan Lả nấu với nước suối Mường Lùng mới thấy hết cái thơm ngon.
Những du khách từng đến Tú Lệ được thưởng thức các món ăn được chế biến từ gạo nếp Tú Lệ như: cốm, cháo cốm vịt, xôi nếp ngũ sắc, cơm lam... chắc hẳn còn nhớ mãi hương vị tuyệt vời.
Nguồn:comvanphong24h.com
- Details
- Hits: 1596
Chắn chắc cũng từng biết đến món đặc sản có tên gọi là mực ngào ớt tỏi - một trong những món ăn ngon của vùng biển Quy Nhơn. Những con khô mực ngào ớt óng ánh đầy hấp dẫn cho những cuộc nhâm nhi. Khô mực ngào ớt có vị cay cay của ớt tương, chút vị mặn, chút vị ngọt của mực, đảm bảo thực khách ăn vào sẽ nhớ mãi hương vị rất độc đáo của món này.
Ai đã từng ghé thăm Quy Nhơn chắc hẳn đã từng được ăn khô mực ngào. Những con khô mực ngào ớt óng ả hấp dẫn cho những buổi nhâm nhi vào những ngày mưa ở TP.HCM. Khô mực có vị cay cay, chút mặn, chút vị ngọt của mực, đảm bảo ăn sẽ nhớ mãi!
- Mực ngào tỏi ớt là tặng phẩm được người dân miền biển rất ưa chuộng. Từ những con mực tươi sống được chọn lọc cẩn thận, đảm bảo kích cỡ phù hợp. Qua sơ chế, mực được tẩm ướp nhiều gia vị tổng hợp mang đậm hương vị miền duyên hải. Đặc biệt, thực khách sẽ bị kích thích bởi vị ngọt hấp dẫn trong từng thớ thịt của mực ngay lần thử đầu tiên.
- Khô mực ngào ớt, hay gọi tắt là "mực ngào", là một món ăn đặc sản của vùng biển. Mực ngào là món ăn tuyệt vời cho những cuộc nhâm nhi khi bạn trò chuyện cùng người thân, bạn bè. Khô mực ngào ớt có vị cay cay của tương ớt, chút mặn mặn và vị ngọt của mạch nha, đảm bảo người thưởng thức sẽ nhớ mãi hương vị rất độc đáo của món ăn này.
- Mực ngào tỏi ớt qua quy trình xử lý và sấy khô để sản phẩm được gọn nhẹ, bảo quản được lâu hơn, nhưng vẫn đảm bảo được thành phần dinh dưỡng và những tính chất đặc trưng vốn có của mực: màu sắc, độ ngon, cũng như hàm lượng đạm khi sử dụng.
- Mực ngào tỏi ớt là sản phẩm gia truyền, được làm từ mực khô lại được nướng rồi đem ngào ớt nên thời gian bảo quản rất lâu, không sử dụng chất bảo quản.
Mực ngào tỏi ớt là sản phẩm dùng được ngay, không cần chế biến thêm, có rượu bầu đá hoặc bia vào sẽ tăng thêm hương vị thơm ngon, đậm đà của sản phẩm.
là sản phẩm ăn vặt, quà tặng vô cùng đậm đà bản sắt của vùng biển miền trung cho mọi người.
Nguồn:comvanphong24h.com
- Details
- Hits: 1534
Những chiếc bánh xèo to bằng bàn tay người lớn, có độ nóng, giòn vừa phải ăn kèm với rau và nước chấm mang lại cho bạn cảm giác ngon miệng.
Bánh xèo miền trung là một món ăn quen thuộc của người dân miền Nam và miền Trung. Chiếc bánh xèo đơn giản với bột gạo, nhân tôm, thịt... ăn kèm với rau sống, nước chấm từ lâu đã trở thành món ăn chơi bình dị của người dân quê.
Bánh xèo miền trung món ngon đặc sản
Không hấp dẫn người ăn bởi màu vàng đặc trưng như bánh xèo miền Nam, chiếc bánh xèo của người miền Trung hấp dẫn bởi hương vị thơm ngon, đậm đà của nó.
Khác với bánh xèo miền Nam khá to, bánh xèo miền Trung có kích thước khoảng bằng bàn tay người lớn, ít nhân, thường chỉ là một con tôm nhỏ, hoặc vài ba lát thịt, mực.. thêm một ít giá tươi. Không hấp dẫn người ăn bởi màu vàng tươi của bột nghệ, cũng không có cái vị béo đặc trưng của nước cốt dừa như bánh xèo miền Nam, chiếc bánh của người miền Trung hấp dẫn người ăn bởi hương vị thơm ngon của chiếc bánh, bên cạnh đó là vị đậm đà của chén nước chấm ăn kèm với rau sống làm cho món ăn thêm thơm ngon.
Đặc sản của dân Miền Trung
Bánh xèo miền Trung có kích thước nhỏ, ít nhân.
Nước chấm của bánh xèo miền Trung rất phong phú, ngoài chén nước chấm chua ngọt như cách ăn của người miền Nam, còn có chén nước chấm mắm nêm được pha đậm đà, vừa ăn hay chén nước chấm pha với đậu phụng thơm ngon và có vị hơi béo.
Bánh xèo miền Trung tuy giản dị, dân dã nhưng lại chiếm được cảm tình của người Sài Gòn và được coi là một trong những món ngon miền trung hấp dẫn nhất thực khách gần xa vì cái hấp dẫn rất riêng của nó. Chiếc bánh nhỏ, nóng hổi và giòn rụm, các loại rau ăn kèm phong phú, ngoài rau cải, xà lách, diếp cá, tía tô, húng thơm, húng quế... còn có thêm chuối chát, khế chua thái lát.
Không ồn ào, nổi tiếng như bún bò Huế hay mì Quảng, bánh xèo miền Trung mộc mạc và bình dân nhưng vẫn có được cho mình một vị trí rất riêng trong thú vui ẩm thực của người Sài Gòn.
Nguồn:comvanphong24h.com
- Details
- Hits: 899
Cùng tìm hiểu về công dụng của 2 loại hạt với những cái tên đặc biệt của miền Trung này nhé !
* Trái ươi –quả ươi (hay còn gọi là hạt đười ươi, hột đười ươi, hạt lười ươi, hột lười ươi)
là quả của một loại cây gỗ lớn trong rừng, tập trung nhiều ở vùng Trung Trung Bộ và Tây Nguyên. Quả ươi ngâm nước thì nở ra, nó được dùng làm nước giải khát, có tác dụng thanh nhiệt, giải độc, chữa ho khan, nhuận tràng và bệnh gai cột sống. Trong sách y học cổ truyền còn có tên Đại hải tử, Đại hải, Đại đồng quả, An nam tử, Hồ đại phát, bàng đại hải.
Công dụng trái ươi
Theo tài liệu cổ lười ươi có vị ngọt, có tác dụng thanh nhiệt, lợi cổ họng, giải độc, thường dùng chữa ho khan, cổ họng sưng đau, nôn ra máu, chảy màu cam.
Hiện nay công dụng chủ yếu của vị thuốc này là thanh nhiệt, giải độc, nhuận tràng và chữa bệnh gai cột sống
Cách dùng trái ươi
Ngâm khoảng 3 - 4 hạt ươi cho một ly nước. Chờ khoảng 30 phút, chú ý nên ngâm với nước ấm thì ươi sẽ nở nhanh hơn. Khi hạt ươi nở, quan sát sẽ thầy vỏ tróc ra và có một lớp như lưới màu nâu bao quanh hạt. Nhặt hạt và vỏ bỏ ra ngoài ta sẽ có phần còn lại của quả ươi. Lấy đó pha với đường cát trắng cho vừa miệng, thêm ít nước uống vào sẽ rất mát, có thể mua ít hạt é hoặc hạt Chia về ngâm và cho vào dùng chung với hạt đười ươi thì không có gì thú vị hơn nữa.
Liều dùng
3-5 trái / ngày
Bảo quản trái ươi
Để nơi khô thoáng. Tránh tiếp xúc với nước
* Trái Say
Trái say còn có tên gọi khác trái Nhung. Gọi là trái Nhung vì ở ngoài lớp vỏ trái say có một lớp long tơ mịn như nhung phủ lên bên trên vỏ. Trái say có mùi vị rất lạ, rất đặc trưng của một loại trái cây rừng nên không bao giờ bị nhầm lẫn với các loại trái cây khác.
Hình dáng trái say có hình bầu dục hơi dẹp. Bên ngoài lớp vỏ trái say có màu đen đen hay nâu thẫm. Lớp vỏ bên ngoài của trái giòn, chỉ cần dùng tay ấn nhẹ là sẽ làm vỡ lớp vỏ để lộ ra lớp thịt bên trong. Thịt bên trong trái thường có màu vàng đậm, thịt xốp và mềm. Khi ăn vào miệng, cảm giác đầu tiên ta có thể nhận thấy là vị chua chua, nhưng để lâu hơn một chút ta sẽ thấy vị chua chua ấy tan biến mà đọng lại là vị ngọt thanh rất riêng biệt trong miệng...
Say có thể dùng để ăn sống hay thường thì được đem rim chung với đường. Say rim đường là một trong các món ăn được các bạn trẻ rất yêu thích. Vị ngọt ngọt của đường, chua chua nhè nhẹ của say thu hút được hầu hết những thực khách đã từng nếm thử qua. Hết hè sang thu, trái say lại nở rộ trên các cành cây cao ngất ngưỡng, chỉ là một món ăn dân dã thôi nhưng say đã làm "say" lòng biết bao nhiêu thực khách.
Nguồn:comvanphong24h.com
- Details
- Hits: 1711
Cố đô Huế được biết đến không chỉ bởi nét đẹp cổ kính, không gian thơ mộng trữ tình, với những điện đài sơn son thiếp vàng mà còn nổi tiếng với nghệ thuật ẩm thực cầu kỳ, tinh tế và đặc sắc.
Đầu bếp Anthony Bourdain của kênh truyền hình CNN đã từng đến Huế và có nhận xét “Nếu du khách đã từng đến Huế, miền Trung Việt Nam mà không ghé vào chợ Đông Ba để thưởng thức bún bò Huế thì quả thật là một sự đáng tiếc. Một món ăn ngon với thịt lợn và xương bò. Đây là món súp ngon nhất thế giới mà tôi từng thưởng thức”.
Ở Huế, món ăn này được gọi đơn giản là "bún bò", trong khi ở các địa phương khác gọi là "bún bò Huế" để chỉ xuất xứ của món ăn.
Bún bò Huế có nguyên liệu chính là bún, thịt bắp bò, giò heo, chả (thịt bò quết nhuyễn), tiết luộc cùng nước dùng có màu đỏ đặc trưng. Thành phần tuy đơn giản là thế nhưng dưới cách chế biến tài tình, tinh tế đến mức cầu kỳ của người Huế thì bún bò đã trở thành một thương hiệu riêng của đất cố đô, chính điều đó đã tạo cho món ăn sức hấp dẫn đối với du khách trong và ngoài nước.
Cũng như nhiều món ăn đặc trưng của Huế, cách chế biến bún bò rất cầu kỳ. Đầu tiên, được coi là “linh hồn” của món bún bò chính là nước lèo, nước được hầm từ xương bò với một vài loại củ, nước lèo ngon thì phải trong và khi nếm chỉ thấy vị ngọt của nước xương thịt hầm - đạt được hai yêu cầu đó đã là khó, lại thêm để cho thực khách gật gù với món ăn mình đang thưởng thức thì người nấu phải có một bí quyết nêm gia vị, mà cụ thể là nghệ thuật nêm mắm ruốc đúng liều lượng để tạo mùi thơm phảng phất và vị ngọt đậm đà cho món ăn. Tinh dầu của sả có mùi thơm nồng, đủ mạnh để trung hòa mùi mắm ruốc và giúp cho mùi giò heo luộc vừa chín tới, mùi thịt bò trộn cùng mùi mắm ruốc, tiêu, hành, nước mắm trở nên dịu và ngạt ngào thơm. Tuy nhiên, không phải “một ngày như mọi ngày”, với một nồi bún Huế, người nấu phải ý tứ theo mùa. Mùa hè thì vị muối nhạt hơn, còn mùa đông Huế đặc biệt với mưa dầm dề, lạnh cắt thịt da, người nấu bún phải chú ý nêm vị đậm hơn, bên cạnh đó, mùi thơm của sả cũng làm ấm lòng thực khách dù ngoài trời mưa tầm tã.
Bún thì nơi nào cũng có chứ không riêng gì Huế. Thế nhưng, Con bún (sợi bún) Huế được người làm nhào, nặn, quết, vắt bằng tay nên có hình dạng to hơn bún Bắc và bún Nam. Bún ngon phải là bún được làm bằng bột gạo pha chút bột lọc với tỷ lệ vừa phải để cho con bún ướt, ngon và dai hơn. Ngoài ra, phụ liệu không thể thiếu cho món ăn này là rau sống. Rau sống để ăn kèm với bún bò bao gồm hoa chuối thái mỏng ngâm nước có pha nước chanh để được trắng, rau muống cọng chẻ nhỏ, rau quế, tía tô, húng lủi, giá đỗ, chanh. Đặc biệt, khi ăn bún bò Huế, không thể thiếu chút ớt chưng cay nồng rất đậm chất Huế.
Là một trong những món ăn mang đậm hương vị đặc trưng của vùng đất cố đô, bún bò Huế càng được biết đến sau khi được Tổ chức Kỷ lục châu Á công nhận đây là món ăn đạt kỷ lục châu Á theo bộ tiêu chí “Giá trị ẩm thực châu Á” năm 2012. Ngày nay, dù ở bất kỳ đâu trên mảnh đất hình chữ S này du khách cũng có thể có cơ hội thưởng thức một bát bún bò Huế. Tuy nhiên, được thưởng thức món ăn này tại chính quê hương sinh ra nó mới có thể cảm nhận được hết sự cầu kỳ, tỉ mẫn của con người cũng như nét tinh túy của ẩm thực vùng đất kinh kỳ.
Nguồn:comvanphong24h.com
- Details
- Hits: 828
Bà Bê vào chuyện: “Nghề này tôi tự mày mò đã lâu. Sau ngày giải phóng, mới định hình, rồi theo luôn từ đó”. Năm nay đã 80 tuổi, bà Bê hiện chỉ bảo ban cho con cháu trong nhà làm nghề. Bà kể, hồi nhỏ được cho đi học vì bố mẹ cũng thuộc diện có của. Nhưng vì hoàn cảnh lịch sử nên chỉ học hết bậc tiểu học, rồi lo buôn bán và làm ăn.
Khi buôn bán rơi vào cảnh khó khăn, bà chuyển sang làm bánh chưng. Vốn tỷ mẩn, khéo tay, bà vừa làm và kê bàn nhỏ trước hiên nhà bán lẻ. Rồi dần chiếm được chữ tín, khách gần xa từ các nơi tìm đến đặt mua, đặc biệt vào dịp lễ, Tết... Cứ thế, tên tuổi vang xa. “Nhờ nghề bánh chưng mà gia đình tui vượt qua trong những năm gian khó ấy. Đúng là “Cho dù ruộng đất rề rề/ Chẳng bằng có một cái nghề trong tay”. Lời đúc kết kinh nghiệm của ông bà ta từ xưa không sai”.
Cụ bà “Mệ tóc bạc”, tên thật là Đào Thị Bê, ở 117 đường Nhật Lệ, địa chỉ làm bánh chưng nức tiếng gần xa. Căn nhà tuy khiêm tốn nhưng luôn rộn rã tiếng cười nói của khách ra vào.
Vui chuyện, bà Bê giãi bày: “Nghề này cực lắm. Hết còng lưng mâm mê với nếp đậu, dưa hành lại tiếp xúc với lò lửa hừng hực suốt ngày. Nhưng nghề của mình thì mình yêu mình quý”. Để làm ra chiếc bánh chưng không khó, nhưng để làm vừa lòng khách lại không dễ. Bánh chưng Nhật Lệ được khách ưa chuộng có sự kết tinh kinh nghiệm qua nhiều năm của người chế biến. Bây giờ, điều bà Bê vui là sản phẩm của gia đình được nhiều nơi tín nhiệm. Khách từ bắc chí nam vào Huế muốn bánh chưng là khăng khăng tìm đến “Mệ tóc bạc” mua bánh về làm quà. Vào dịp Tết, bánh chưng của bà xuất vào TP Hồ Chí Minh hàng chục ngàn chiếc. “Dịp Tết, gia đình tôi làm hàng không kịp bán. Dù đã thuê 8-9 nhân công, với 6 chiếc lò luôn rực đỏ suốt mùa, nhưng khoảng 27-28 Tết là phải từ chối đơn đặt hàng”. Bà Bê bộc bạch.
Mọi thứ không đơn giản
Bánh chưng Nhật Lệ nức tiếng gần xa là nhờ chất lượng và chữ tín, bà Đinh Thị Thêm, người chị bên chồng của bà Bê, cũng có cửa hiệu bánh chưng nằm cạnh cửa hiệu “Mệ tóc bạc” xởi lởi. Để làm bánh chưng được khách tin dùng, gạo nếp được đặt mua tại các chợ vùng trũng Quảng Điền. Đó là thứ gạo nếp thơm dẻo, có hạt mẩy tròn, trắng tinh. Đậu làm nhân phải là đậu xanh nguyên lõi, được đãi sạch và nấu chín, sau đó nắm tròn thành từng chiếc nhỏ cho từng cái bánh. Nhân thịt lợn phải nửa nạc, nửa mỡ luộc, thái dày, trộn hạt tiêu đặt mua tỉnh Gia Lai và hành tím cũng lấy từ miền Nam. Lá chuối hay lá dong để gói cũng đặt mua, tuyển chọn thành xếp cẩn thật.
Ngoài chuẩn bị nguyên liệu, khâu luộc bánh cũng phải kỹ từ sắp bánh vào thùng, giữ đúng thời gian bánh chín từ 10-12 giờ liền và không cho bất kỳ loại hóa chất nào. Một bí quyết làm cho bánh chưng Nhật Lệ thơm ngon là gạo nếp để làm bánh không ngâm như các nơi khác. Gạo ngâm sẽ một phần lên men và chua, bảo quản không được lâu. Các lò bánh chưng Nhật Lệ gốc đãi gạo nếp rất kỹ, sau đó để ráo hết nước mới gói bánh. Vì thế, bánh chưng Nhật Lệ để lâu ngày không ôi thiu. Bà Bê giải thích: “Gạo nếp không ngâm thì không chua, bánh để được lâu hơn. Do không ngâm nên khi luộc hạt nếp nở ra liên kết với nhau thành một khối, luộc kỹ tới 12 tiếng vớt ra bánh chín đều từ trong lõi ra ngoài, thịt mỡ ngấm đều thân bánh tạo độ béo. Bánh của nhà bà nhờ đó được khách hàng gần xa tín nhiệm, mua tặng bạn bè người thân ở TP Hồ Chí Minh, lên Đà Lạt và nhiều khách Việt kiều mang qua tận Mỹ ...
Chị Lê Thị Hà, nhân công giúp tại nhà bà Bê, cho hay: “Muốn lĩnh hội cách làm bánh chưng Nhật Lệ phải tỉ mẩn học từ cách rửa lá, vo gạo, đãi đỗ, tướt gân bánh đến pha lọc thịt. Gói bánh không dễ, quá chặt tay bánh sẽ chóng lại gạo, lỏng tay thì bánh nhão. Để hình dáng bánh đẹp, đều từng loại, bà Bê luôn nhắc nhở với nhân công của mình gạo nếp bao nhiêu, thịt bao nhiêu, đến lá cũng phải cân từng chiếc, dây cột phải tướt đều... thì bánh mới đều và đẹp.
Ông Hồ Đình Ngộ, chồng bà Thêm khoe: “Nhờ cái nghề này mà vợ chồng tôi nuôi dạy 4 đứa con trở thành giáo viên, kỹ sư có việc làm ổn định. Hiện, công việc làm bánh chưng của gia đình vẫn đều, làm bán cho khách quen qua lại trên phố và các nơi lân cận. Tuy nhiên, vào dịp Tết phải thuê 7-8 nhân công để sản xuất mỗi ngày 30-50 ngàn bánh theo đơn đặt hàng.
- Details
- Hits: 1791
Nhiều người nói, đến Huế mà không ăn chè hẻm xem như chưa biết Huế. Tôi cũng cảm thấy như vậy, bởi cái thú đi ăn chè hẻm vào những buổi chiều se se lạnh xem ra cũng hấp dẫn không kém tô bún bò nghi ngút bên hông chợ Đông Ba, hay những chén bánh bèo xinh xắn trong kiệt Cung An Định vậy..
Cái rét miền Trung cũng "đậm đà" không thua gì cái nắng đỏ lửa ngày hè, với mưa phùn từ ngày này sang ngày khác và cái rét đậm xám xịt cả đất trời. Trong điều kiện đó mà được thưởng thức chén chè ấm nóng, thoang thoảng hương gừng, khói bốc nghi ngút quả là một trải nghiệm khó quên.
Chè hẻm Huế thường nằm sâu trong những con hẻm nhỏ (mà người địa phương thường gọi là "kiệt"), với thứ ánh sáng mờ mờ như được thắp bằng đèn dầu trong những ngày đông. Những biếc bàn nho nhỏ được kê cạnh vài chiếc ghế như những chiếc đòn cao. Phía cửa ra vào được đặt sẵn nhiều bộ ấm chén uống trà kiểu xưa, luôn ăm ắp nước đậu rang thanh nhiệt để khách tự phục vụ. Người bán cứ thong thả từ từ, nên khách cũng không vội vã gì, đến ăn chè như thưởng thức món ăn chơi vào bữa xế hoặc lúc đêm khuya, vừa nhâm nhi, vừa nhẩn nha trò chuyện.
Bên trong bếp là những dãy ly dài được xếp ngay ngắn, chè được múc lưng lửng để khi khách gọi mới cho đá bào theo kiểu truyền thống vào. Các thố chè được nấu sẵn ngào ngạt hương thơm với nhiều sắc màu bắt mắt.
Chè hẻm - nét duyên của ẩm thực Huế! Đủ các loại chè được múc sẵn để kịp phục vụ lượng khách đông đảo
Chè sen đúng chất Huế là phải nấu từ loại sen trồng ở hồ Tịnh Tâm, xưa vốn được dùng tiến vua nên có hương trầm thật lạ. Một lần ghé chợ Đông Ba tôi mua một xâu sen khô, dù đã để lâu ngày nhưng khi mang nấu chè đãi khách ai cũng tấm tắc khen; sau này mua hạt sen ở Sài Gòn nhưng không thể nào tìm lại được mùi hương ấy. Thế mới biết sen Huế là “danh bất hư truyền”, làm nên món chè sen trứ danh mà không vùng miền nào sánh được. Mang tim sen này đi ướp trà mùi hương cũng rất bền, cho nên người Huế tự hào với câu ca dao:
“Thương chồng nấu cháo le le
Nấu canh bông bí, nấu chè hạt sen”
Thứ đến là chè đậu xanh, món chè mà người bán thường rao là “chè xanh đánh”. Món chè này rất thịnh ở Huế đi cùng với tín ngưỡng thờ Phật tại gia, cứ mỗi ngày rằm, mùng 1 hàng tháng là nhà nhà nấu chè xanh đánh và xôi trắng để cúng. Do đó hầu hết phụ nữ Huế đều rất thạo món này, dù phải bỏ ra khá nhiều thời gian và công sức.
Dù cho thời tiết thế nào thì chè hẻm Huế luôn phục vụ hai loại chè nóng và lạnh. Chè nóng gồm có chè bắp, chè đậu ván, đậu quyên, khoai tía … Chè lạnh thì phong phú hơn như đậu ngự, chè bột lọc bọc dừa, bọc lạc, chè xanh đánh, đậu xanh, đậu đen, đậu đỏ...
Đậu quyên là món chè mà gần như bạn không thể tìm thấy ở Sài Gòn, nên người nhớ Huế muốn ăn cũng đành ngậm ngùi tiếc rẻ. Đậu quyên có màu nâu đỏ, hạt to như đậu ngự, thường được để nguyên vỏ khi hầm và thêm vài hạt muối cho vị thêm đậm đà.
Khoai tía cũng là món khó tìm thấy ở Sài Gòn, có hình dáng tựa củ khoai môn, bên trong là màu tím Huế rất đẹp. Muốn nấu chè ngon phải lựa củ khoai không bị sâu mọt (củ khoai tía không đạt coi như bỏ cả nồi chè). Chè khoai tía khiến người ăn hoài cổ mỗi khi Huế vào đông, tinh bột khoai khi nấu chín vừa dẻo vừa bùi, thêm vài sợi gừng thì bao nhiêu giá lạnh bên ngoài được xua tan hết...
Cũng thật thiếu sót nếu không nhắc đến món chè bột lọc bọc heo quay. Bột lọc có mặt trong hầu hết các món ngon Huế, nên món chè lọc bọc heo quay cũng giống như chè thịt quay hoặc chè hột vịt của người miền Tây, đều là những món ngọt được lấy cảm hứng từ món mặn.
Chè heo quay là món cung đình, cũng là món cầu kỳ nhất trong các loại chè kể trên. Để có được phần nhân như ý, đầu bếp phải chọn thịt gáy heo, gồm nhiều phần như ba rọi nhưng tinh tế hơn, có phần bì mỏng và trong, mỡ ít, nạc săn và không khô. Xong đem quay cho chín rồi thái vuông như con xúc xắc. Bọc bột lọc hoặc bột nếp bên ngoài, nấu chín với đường phèn sao cho khi chín, nước đường trong lại, vỏ trong veo để nhìn được phần nhân bên trong. Cắn ngập vào nhân mà không thấy ngán, nhai kỹ thấy vị mặn ngọt hài hòa.
Nhiều người nói, đến Huế mà không ăn chè hẻm xem như chưa biết Huế. Tôi cũng cảm thấy như vậy, bởi cái thú đi ăn chè hẻm vào những buổi chiều se se lạnh xem ra cũng quyến rũ không kém tô bún bò nghi ngút bên hông chợ Đông Ba, hay những chén bánh bèo xinh xắn trong kiệt Cung An Định vậy...
Nguồn:comvanphong24h.com
- Details
- Hits: 1751
Ăn chay trong quan niệm của Phật giáo là để nuôi dưỡng pháp thiện, tăng trưởng căn lành và phát triển tình thương rộng lớn đối với mọi người và mọi loài. Trong mọi giá trị giữa cuộc đời, thì sự sống là cái có giá trị nhất và cần được trân trọng nhất. Vì thế, Cơm chay xứ Huế là một món ăn biểu hiện lòng tôn quý và trân trọng sự sống. Khoa học cũng chứng minh, nhờ ăn chay mà con người khỏe mạnh và sống lâu, không bệnh tật.
Đến du lịch Huế, du khách có thể thưởng thức cơm chay ngon bởi lẽ đây là thủ phủ của Phật giáo, nơi có nhiều chùa chiền và các tăng ni, lượng lớn tín đồ theo đạo Phật ăn chay trường hoặc chay kỳ (một tháng mấy ngày) tùy theo mức độ thọ giới của họ. Nhiều chùa xưa ở Huế là do quý tộc lập ra như Từ Hiếu, Hồng Ân… nên việc nấu món ăn chay ngon xuất phát từ chùa, dần dần truyền ra ngoài dân dã.
Cơm chay xứ Huế
Các gia đình Phật tử ở Huế thường mời bạn bè ăn một bữa cơm chay để thể hiện lòng quý mến và trân trọng. Làm một bữa tiệc chay rất khó, thế nên những người nội trợ Huế coi đó là cơ hội để họ trình diễn tài khéo léo của mình. Cái tài của các o, các mệ ở đây là chỉ bằng thảo mộc của thiên nhiên, như phù chúc, đậu phụ, đậu xanh, bánh tráng, nấm… mà vẫn làm nên “giò lụa”, “chả quế”, “thịt gà”, “nem”… Nếu ai không sành, mới chỉ nhìn qua dễ nhầm tưởng là một bữa tiệc mặn có đầy đủ các món ăn ngon của Huế. Cái lạ, cái hay và cái ngon ở đây không chỉ dừng lại ở tài nấu nướng mà còn là sự sáng tạo, tài phô diễn về hình thức có thể “đánh lừa” người ăn bằng việc “mặn hóa” các món chay.
Đối với các gia đình Phật tử ăn chay kỳ, những bữa ăn chay thường đơn giản, chỉ xào nấu đậu phụ và các loại rau, có khi chỉ là đĩa rau muống luộc với tương, chao. Những ngày kỵ (giỗ) người ta mới bày vẽ ra nhiều món ngon và đẹp, như nem chả, thịt kho tàu, thịt gà bóp… bằng đồ chay.
Riêng món chả, đã có thể làm bằng nhiều thứ khác nhau, ngon nhất là làm bằng phù chúc. Phù chúc lúc nào cũng sẵn ở chợ Đông Ba, mua về ngâm cho mềm rồi thêm các gia vị như củ kiệu, xì dầu, tiêu muối, đường, sau đó lấy lá chuối bó lại, đem hấp trên nước sôi cho chín. Khi dọn cắt thành từng miếng giống y như chả thật. Các o, các mệ cũng hay làm chả bằng chuối mật gần chín, đem nấu lên rồi lột vỏ, xắt lát, bỏ vào cối giã nhuyễn; nêm củ kiệu giã nhỏ, xì dầu, tiêu muối, đường, thính (bánh tráng mỏng nướng vàng tán nhỏ làm thính) và bí đao xắt hạt lựu luộc chín, vẩy cho khô nước, trộn vào với chuối cho đều. Tất cả được bó vào lá chuối hơ mềm cuốn tròn lại, buột lạt chặt, đem hấp độ 15 phút. Người ta còn làm loại chả quế bằng đậu khuôn hấp, bên trên phết một lớp phẩm màu nâu sẫm, rồi cắt miếng hình thoi dọn lên, rất giống miếng chả quế mặn.
Có nhiều món ăn chay ngon, nhìn tưởng như món mặn mà bạn khó có thể nhận ra món đó được làm bằng thứ gì, ví như món sườn heo ram chay. Thật ra đó chỉ là khoai lang gọt vỏ, cắt từng thỏi bằng ngón tay, bỏ vào quánh dầu đang sôi, rán vàng. Đậu xanh ngâm nước lạnh vài giờ rồi đãi sạch vỏ, để ráo nước, đem giã nhỏ rồi nêm xì dầu, đường, tiêu và muối trộn đều. Tiếp đó, lấy đậu giã trải ra thớt, sắp vài miếng khoai rán lên trên, cách đều nhau từng quãng như cái sườn heo. Để một lớp đậu nữa lên trên, lấy tay ấn cho chặt để đậu và khoai dính liền nhau. Đổ dầu vào chảo nóng, bỏ “sườn” vào rán vàng. Sau đó thì bỏ ra đĩa, điểm thêm vài miếng xà lách, cà chua cho đẹp.
Cơm chay xứ Huế
Hay món ram (chả giò) chay được làm bằng đậu xanh chà sạch, giã nhỏ và nêm nếm xì dầu, tiêu, muối, đường, thêm bún tàu luộc mềm cắt ngắn, nấm mèo ngâm mềm, rửa sạch, thái nhỏ rồi trộn với đậu cho đều. Bánh tráng mỏng cắt miếng vuông, nhúng nước vẩy cho ráo, nhúng miếng nào làm miếng ấy. Thay vì gói bằng thịt, trứng gà và các thứ khác thì ở đây bỏ đậu đã trộn với các gia vị nói trên gói lại, cho vào chảo dầu đang sôi, rán vàng. Một bữa tiệc ăn mặn có bao nhiêu món thì với tiệc chay cũng có bấy nhiêu món, bày biện đẹp đẽ, màu sắc hài hòa, nghệ thuật không kém cách trình bày món mặn.
Người ta vô cùng kinh ngạc về hình thức “mặn hóa” món ăn chay của người nội trợ Huế. Bằng bất cứ loại thực phẩm chay nào, họ cũng chế được món ăn giống hệt món mặn. Món chay được mặn hóa là để cho những người không thích ăn chay, không theo đạo Phật hoặc không quen ăn chay… vẫn có thể ăn ngon lành, không e dè.
Huế có phủ Tùng Thiện Vương là nơi làm bánh chay nổi tiếng và phủ Tuy Lý Vương là chỗ nấu cơm chay ngon khó ai sánh kịp. Khách đến Huế, nếu thích được thưởng thức một bữa cơm chay thì có thể đến chùa, chùa nào cũng được nhưng tốt hơn cả là chùa Từ Đàm, vì ở đây là chùa sư nữ nên có nhiều ni cô nấu cơm chay ngon, lại ở ngay trong thành phố – trên đường Điện Biên Phủ.
Du khách đến du lịch Huế, ngoài kinh thành, các lăng tẩm, hãy thử đến các ngôi chùa, để tâm hồn được tĩnh tại, thư thái, hướng nhân tâm đi vào cõi thiện. Trong bộn bề của đời thường có biết bao điều ta phải lo toan, trăn trở, có được một chút thư giãn thật quý giá biết bao!
Nguồn:comvanphong24h.com
- Details
- Hits: 1674